Bạn Lưu Thế Hùng thân mến!
Những nỗi khổ niềm đau trong đời thì ai cũng có. Theo thời gian, có người nhanh chóng quên đi quá khứ đau buồn hoặc có nhớ lại thì cũng thoáng qua. Nhưng có người thì không thể nào nguôi ngoai được, ký ức về quá khứ đau buồn rất sâu đậm và mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm trí khiến cho vết thương lòng càng thêm dai dẳng.
Nói về nhân quả-nghiệp báo thì tất cả những biểu hiện của thân tâm mình trong hiện tại đã phản ánh rõ nét nghiệp của mình đã gây tạo trong quá khứ (xa và gần). Điều đáng nói là nghiệp lực của mỗi người do tự mình tạo ra nhưng nghiệp không cố định, nếu nỗ lực tu dưỡng thì có thể chuyển hóa được.
Bạn hay nhớ lại chuyện “những người gây oán thù với mình”. Dù bạn không muốn nhớ những chuyện đau buồn ấy nhưng vẫn cứ nhớ, chứng tỏ trong sâu thẳm của nội tâm bạn vẫn còn cố chấp, chưa thực sự buông xả. Bạn cần bình tâm quán sát thật rõ về những “oán thù” ấy để thấy rằng đó là quả đắng của các nhân bất thiện trong những đời quá khứ. Có vay thì phải trả, trả được chừng nào thì nhẹ nhàng hơn chừng nấy.
Khi chưa biết đạo, tâm mình luôn ghim gút hận thù. Nay mình hiểu rõ đạo lý nhân quả-nghiệp báo (tất cả đều do mình) nên chấp nhận những quả báo xấu, xem như đã trả nợ rồi buông xả và tha thứ hết thảy, kể cả những người đã làm khổ mình. Chính sự chấp nhận, tha thứ và buông xả đã tháo tung nội kết chôn vùi trong tâm bấy lâu nay. Khi hạt giống khổ đau và oán hận được nhổ lên và chuyển hóa thì chúng sẽ ít tái hiện lại trong tâm thức. Nhờ đó, tâm bạn sẽ thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Đối với vấn đề bạn “hay lo lắng mặc dù chuyện ấy chưa xảy ra với mình và lại hay đặt tình huống giả định rồi sợ hãi” chính là vọng tưởng và cũng là nghiệp riêng của bạn. Bạn nên quán chiếu việc quá khứ thì đã qua rồi, việc tương lai thì chưa đến để an trú trong hiện tại; mà thực ra hiện tại cũng đang trôi chảy nói gì đến tương lai.
Đối với ý kiến cho rằng “vọng tưởng của mình là do các vong linh gợi lên”, theo chúng tôi, có chăng cũng chỉ là một vài trường hợp hi hữu như báo mộng chẳng hạn. Người học Phật có chánh kiến cần xác quyết rằng vọng tưởng chính là do nghiệp lực của mình (nội ma) dấy động, không nên nghĩ rằng vọng tưởng đó là do trời thần ma quỷ vong hồn nào đó (ngoại ma) gợi lên.
Bạn đã biết niệm Phật A Di Đà (hay Bồ-tát Quán Thế Âm) thì hàng ngày nên siêng năng niệm Phật, lấy đó làm pháp môn tu của mình. Cần có ít nhất hai thời niệm Phật cố định trong ngày, sau đó tùy duyên niệm Phật mọi lúc, mọi nơi.
Trong quá trình tu tập, không phải đợi vọng tưởng khởi lên mới niệm Phật mà ngược lại bạn luôn niệm Phật, còn vọng tưởng khởi lên thì cứ mặc nhiên (chỉ cần chánh niệm nhận biết rõ mà không duyên theo rồi tự nó cũng tan biến mà thôi). Vọng tưởng như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Phải thấy rằng, vọng tưởng là khách, tâm chánh niệm với Phật hiệu mới là chủ. Khách đến mà chủ không tiếp thì khách tự ra đi. Nên trọng tâm tu tập của bạn là “không ngại vọng tưởng khởi lên, chỉ ngại không nhất tâm niệm Phật”.
Việc sám hối nghiệp chướng, oan gia trái chủ tiền khiên cũng rất cần thiết nhưng chính yếu của tu tập là thiết lập được giới-định-tuệ trong đời sống hàng ngày. Sống đạo đức thì tâm mới an định, tâm được định thì trí mới sáng, trí sáng thì vô minh phiền não tiêu tan, và nhờ đó bạn thành tựu thảnh thơi, an lạc.
Chúc bạn tinh tấn!